VNTB-Pham Chi Dung
Việt Nam quá khó ‘thoát Trung’: Kẻ nào tiếp tay bán đứng dân tộc?
Phải làm rõ trách nhiệm của các quan chức ‘thân Trung’ ở những bộ
ngành liên hệ quá môi răng với hàng nhập từ Trung Quốc: Bộ trưởng công
thương Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng giao thông vận tải Đinh La Thăng, bộ
trưởng xây dựng Trịnh Đình Dũng. Việc làm rõ và quy trách nhiệm này cần
được làm trước đại hội đảng 12.
Mùa thu năm 2015 và là lần đầu
tiên kể từ Hội nghị Thành đô những năm 1990, báo chí và dư luận xã hội
Việt Nam bất ngờ tỉnh ngủ về tương lai ‘thoát Trung’ nếu Việt Nam được
gia nhập Hiệp định TPP. Thậm chí vài tờ báo nhà nước còn can đảm rút tít
từ ngữ trong ngoặc kép bị coi là rất nhạy cảm này.
Sự kiện trên
diễn ra trong bối cảnh hơn một năm sau thời điểm giàn khoan HD 981 của
Trung Quốc tha hồ vỗ mặt Bộ chính trị và Quốc hội Việt nam, và ngay sau
khi TPP kết thúc đàm phán với một chân của Việt Nam đặt trên ngưỡng cửa
hiệp định cứu rỗi kinh tế này.
Cũng từ khoảng một năm qua, có tin
cho biết ‘Trung ương đảng’ đã quyết định ‘dần thoát Trung’. Bằng chứng
là ngay cả một nhân vật bị coi là cực kỳ bảo thủ như Tổng bí thư Trọng
cũng đã đặt chân đến Washington vào tháng Bảy vừa qua.
Thế nhưng
thực tiễn ‘thoát Trung’ bằng cách nào và tiến hóa tới đâu lại là bài
toán cực kỳ nan giải, nếu xét từ hệ quy chiếu ngàn năm Bắc thuộc và hệ
tư tưởng cộng sinh của Hà Nội vào Bắc Kinh trong suốt bảy chục năm lịch
sử đảng Cộng sản Việt Nam.
Bởi ‘thoát Trung’ ngay trong những năm
tới là một khả năng hoàn toàn ‘viển vông’ - nếu có thể mượn từ ngữ này
của Thủ tướng Dũng để mô phỏng mối quan hệ Việt - Trung.
Mối tình ngang trái
Ngay sau vụ HD 981 vào giữa năm 2014, giới chính trị và người dân Việt
Nam đã phải tính tới khả năng đất nước bị Trung Quốc tấn công. Nếu kịch
bản này xảy ra ngay tức khắc, cánh cửa nhập khẩu nguyên phụ liệu từ
Trung Quốc dùng cho các doanh nghiệp dệt may sẽ bị đóng sập. Một số
doanh nghiệp Việt Nam đã thảng thốt than trời rằng nếu mất nguồn nhập
khẩu đã ăn sâu vào não trạng này, họ chỉ có thể cầm cự được tối đa 3
tháng.
Trong lịch sử buôn bán hai chiều với các quốc gia trên thế
giới, Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều nhất. Trung Quốc trở
thành thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỉ
trọng khoảng 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Năm 2014, nhập siêu của
Việt Nam từ thị trường này ở mức kỷ lục với 28 tỉ USD - theo thống kê
chính thức của phía Việt Nam. Nhưng số liệu phía Trung Quốc lại còn cao
hơn, cộng thêm cả hàng nhập tiểu ngạch đường biên mậu, hàng lậu, trốn
thuế. Nếu vào năm 2012, Việt Nam công bố con số nhập khẩu từ Trung Quốc
là 28,8 tỉ USD, thì con số của cơ quan chức năng Trung Quốc lại đến 34
tỉ USD.
Phần lớn hàng nhập từ Trung Quốc là hàng trung gian,
chiếm 60% gồm nguyên phụ liệu cho các ngành dệt may, da giày, điện tử;
các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng chiếm khoảng 30%; hàng
tiêu dùng chiếm 10%.
Trong danh sách các mặt hàng nhập khẩu từ
Trung Quốc năm 2014, Việt Nam tốn hàng chục tỉ USD cho nguyên phụ liệu
dệt may, da giày, vải các loại, sắt thép, máy vi tính và sản phẩm điện
tử linh kiện, máy móc, thiết bị dụng cụ, phụ tùng, điện thoại các
loại...
Chỉ từ sau năm 2000 đến nay, giá trị nhập siêu của Việt
Nam từ Trung Quốc đã tăng đến 150 lần, từ mức 200 triệu USD lên đến 35
tỷ USD dự kiến trong năm 2015. Còn trong những năm 2013 và 2014, VN phải
nhập siêu từ 23-24 tỉ USD hàng năm từ Trung Quốc. Đó là chưa kể đến 20
tỷ USD nhập lập từ Trung Quốc mà cho tới giờ này các bộ ngành VN vẫn còn
nhắm mắt đổ lỗi cho nhau, không ai biết số hàng này tuồn đi đâu và cũng
chẳng ai dám nhận trách nhiệm…
Một nghiên cứu của Trung tâm WTO
còn cho thấy các nhà thầu Trung Quốc là tổng thầu EPC của 77/106 dự án
lớn trong các lĩnh vực hóa chất, khai thác chế biến bauxite, xi măng,
nhiệt điện... của Việt Nam. Đây là những dự án lớn, ảnh hưởng đến nền
kinh tế nhưng do nhà thầu Trung Quốc thực hiện nên một phần đáng kể
nguồn cung năng lượng, các hoạt động của nền kinh tế phụ thuộc vào năng
lực, chất lượng và hiệu quả từ các hoạt động của nhà thầu nước này. Phần
lớn các dự án lại sử dụng máy móc, vật tư, nguyên liệu nhập từ Trung
Quốc càng khiến tình trạng nhập siêu của Việt Nam từ thị trường này thêm
trầm trọng. Nhiều nhà máy sau khi đi vào vận hành lại gặp trục trặc,
thời gian sửa chữa, bảo dưỡng kéo dài...
Đó là một sự mất cân xứng quá lớn và làm lợi rất nhiều cho Trung Quốc.
Ai và những cơ quan nào của Việt Nam đã tiếp tay cho hậu quả phụ thuộc
thiên triều như thế? Làm sao có thể ‘thoát Trung’ về kinh tế nếu vẫn khư
khư ôm chặt mối tình bời rời ngang trái giữa hai thân xác chính trị
thỗn thện?
Kẻ nào tiếp tay bán đứng dân tộc?
Giới chuyên
gia đánh giá: với tỉ trọng 60% nguyên phụ liệu đầu vào nhập từ Trung
Quốc, nếu từ bỏ thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ xoay trở không kịp. Cơ cấu
này đang gây khó rất lớn cho việc Việt Nam tham gia vào TPP, ứng với một
điều kiện không thể thay đổi của TPP là Việt Nam phải chuyển đổi vùng
nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ngoài TPP như Trung Quốc về các nước
trong khối TPP.
Vậy là TPP chỉ có thể làm được vài việc cho khả
năng thoát Trung về kinh tế. Với quy định nghiêm ngặt của TPP về cơ chế
phải nhập nguyên vật liệu từ các nước nội khối TPP, các doanh nghiệp
Việt Nam sẽ phải bắt buộc chuyển đổi dần cơ cấu nhập khẩu từ kênh Trung
Quốc sang các nước khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore…, giãn dần tỷ
lệ nhập siêu từ Trung Quốc.
Tuy thế, cản ngại rất lớn đang tồn
tại đối với triển vọng thoát Trung không chỉ là là thói quen nhập hàng
giá rẻ của Trung Quốc, mà còn bởi lợi ích nhóm về kinh tế và chính trị
của một lực lượng không nhỏ giới quan chức Việt Nam nhưng ‘thân Tàu’.
Trong thời gian qua, số quan chức này đã tìm cách ngăn cản và phá đám
Hiệp định TPP cho Việt Nam. Trong thời gian tới, những quan chức này còn
có thể tiếp tục tạo ra những tình huống nan giản để gây khó khăn cho
tiến trình Việt Nam triển khai thực thi các quy định TPP. Đặc biệt với
những quan chức này nằm trong những bộ ngành kinh tế liên quan mật thiết
đến TPP như Bộ công thương, Bộ xây dựng, Bộ giao thông vận tải, Bộ Kế
hoạch và đầu tư…, nhiều doanh nghiệp Việt Nam muốn chuyển đổi kênh nhập
khẩu sẽ bị hành hạ không ít bởi chủ kiến chính trị của Bắc Kinh.
Bởi thế trong những năm trước mắt, chỉ có thể thận trọng nói tới khả
năng Việt Nam ‘giãn Trung’ về kinh tế, và tốt hơn nữa là ‘giãn Trung’ về
chính trị.
Nhưng muốn ‘giãn Trung’ về chính trị như điều mà có
lẽ phần lớn giới lãnh đạo Hà Nội đang ý thức một cách chậm chạp, lại cần
phải có những hành động cụ thể thay cho lời lẽ đầu môi chót lưỡi và
thay cho những khẩu hiệu mà đã khiến trí thức và nhân dân nhàm chán đến
mức tăng vọt hệ số tiểu đường.
Tại sao dư luận càng phản ứng
thì nạn nhập siêu từ Trung Quốc càng trầm trọng và năm sau càng trầm kha
hơn năm trước? - đòi hỏi đầu tiên của nhân dân cần được giới lãnh đạo
Việt Nam xử lý ngay.
20 tỷ hàng nhập lậu từ Trung Quốc đã đi đâu
và ai, những cơ quan nào phải chịu trách nhiệm về lỗ hổng có thể nuốt
sống cả dân tộc như thế? - một đòi hỏi tiếp theo.
Hai đòi hỏi
trên lại dẫn đến đòi hỏi thứ ba và không thể thiếu: phải làm rõ trách
nhiệm của các quan chức ‘thân Trung’ ở những bộ ngành liên hệ quá môi
răng với hàng nhập từ Trung Quốc: Bộ trưởng công thương Vũ Huy Hoàng, Bộ
trưởng giao thông vận tải Đinh La Thăng, bộ trưởng xây dựng Trịnh Đình
Dũng. Việc làm rõ và quy trách nhiệm đối với các ủy viên trung ương này
phải được làm trước khi đảng cầm quyền tổ chức đại hội lần thứ 12.
Kể cả những kẻ đã tiếp tay bán đứng dân tộc này cho Trung cộng ...