Vì sao cổ phần hóa trước đây không thành công?
Theo TuanVietNam
Khi có khủng hoảng toàn cầu (cuối năm 2008) thì lãnh đạo lại thấy cần tăng cường khả năng can thiệp của nhà nước đối với thị trường, với nỗi lo sợ thì trường sẽ không chống đỡ nổi và kinh tế có khả năng sụp xuống.
LTS: Ngày18/2, tại phiên làm việc của Chính phủ với các DN, Thủ tướng đã đề ra mục tiêu cổ phần hóa (CPH) mạnh mẽ trong 2 năm tới. Từng nhiều năm theo dõi, tư vấn và phản biện quá trình CPH ở Việt Nam, bà Phạm Chi Lan sẽ chia sẻ về sự khúc khuỷu của con đường CPH lâu nay cũng như riển vọng sắp tới.
Bà Phạm Chi Lan. Ảnh Lê Anh Dũng |
Quá trình cổ phần hóa (CPH) của Việt Nam từ trước đến nay đã có lúc nào suôn sẻ chưa?
- Chưa lúc nào suôn sẻ.
Ngay cả trước đây, khi chúng ta công bố đã CPH được một số rất lớn là hơn 3 ngàn DNNN trong 6-7 năm, thì chuyện cũng không hề suôn sẻ. Sở dĩ nhiều như vậy vì đây đều là những đơn vị rất nhỏ, là một cửa hàng mậu dịch quốc doanh chẳng hạn, đang hoạt động yếu hay thực tế là đã chết.
Khi Việt Nam chuẩn bị vào WTO, sau ĐH Đảng năm 2006, người đứng đầu CP tuyên bố sẽ CPH 500 DN nhưng cuối cùng chỉ đạt không tới một nửa. Chỉ làm trong 2 năm 2006 – 2007, sau đó chững lại.
Năm 2006 con số đạt được vẫn cao vì thị trường chứng khoán bùng lên, sức hút rất lớn. Nhiều DNNN trước đó còn lần chần đã vội lao ra thị trường bằng cách CPH để IPO lên thị trường chứng khoán, và giá cổ phiếu tăng vọt ngay.
Đến 2008 thì khựng lại do lạm phát tăng cao, và đầu năm 2008 TƯ Đảng phải đề ra 8 nhóm giải pháp chống lạm phát. Cộng thêm vào đó, bong bóng của chứng khoán bùng lên nhanh và sụt xuống cũng nhanh, làm cho các DNNN ngần ngại không muốn CPH.
Ảnh: tinnhanhchungkhoan |
Xu hướng thành lập tập đoàn
Từ 2006 – 2010 là giai đoạn bùng phát của tập đoàn kinh tế nhà nước (tập đoàn), và có chuyên gia nói rằng đó là xu hướng đi ngược lại với CPH?Bà thấy sao?
- Đúng. Vinashin là rõ nhất với tập hợp tới 300-400 công ty con. Các DN “né” CPH bằng cách gia nhập tập đoàn.
Khi đang giữ mô hình tổng công ty (TCT) thì chỉ có chừng vài chục công ty là cùng, nhưng trở thành tập đoàn thì mới được kinh doanh đa ngành, và những DNNN nào muốn “né” CPH thì chui vào tập đoàn. Mô hình tập đoàn không còn là thí điểm như tuyên bố ban đầu, mà bung ra tới con số 12.
Thứ nhất, họ thấy DNNN vẫn được ưu ái. Nghị quyết ĐH Đảng nhấn mạnh DNNN là chủ đạo, cộng thêm việc cho phép tập đoàn kinh doanh đa ngành. DNNN thấy ngay được thông điệp là nhà nước không định rút ra khỏi lĩnh vực kinh doanh nào.
Thứ hai, DNNN muốn tiếp tục được hưởng hết những ưu ái như đất đai, tín dụng và quyền kinh doanh trong những lĩnh vực họ không muốn có cạnh tranh thị trường.
Lý do thứ ba là lãnh đạo cho rằng tham gia WTO thì cần phải cũng cố DN trong nước cho mạnh lên, và nhấn mạnh DNNN, đặc biệt là tập đoàn, phải trở thành những quả đấm thép. Ý tưởng này xuất hiện khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO và kinh tế toàn cầu chưa có khủng hoàng, nên các DNNN mới lũ lượt kéo nhau chui vào tập đoàn.
Đến khi khủng hoảng toàn cầu (cuối 2008) thì lãnh đạo lại thấy cần tăng cường khả năng can thiệp của nhà nước với thị trường, bởi sợ nền kinh tế có khả năng bị sụp xuống.
Tôi còn nhớ tại một cuộc họp của CP với CN, một vị lãnh đạo phụ trách về kinh tế có nói rằng CP không dựa vào DNNN thì dựa vào ai, khi có một vài tập đoàn nói rằng họ khó tiếp cận với tín dụng, và các bộ các ngành còn gây khó khăn. Nhiều tập đoàn dựa vào câu nói đó để yêu cầu các cơ quan liên quan phải giải quyết các vấn đề cho họ.
Tôi còn nhớ tại một cuộc họp của CP với CN, một vị lãnh đạo phụ trách về kinh tế có nói rằng chính phủ không dựa vào DNNN thì dựa vào ai, khi có một vài tập đoàn nói rằng họ khó tiếp cận với tín dụng, và các bộ các ngành còn gây khó khăn. Nhiều tập đoàn dựa vào câu nói đó. |
Cuối cùng, một lợi ích nữa để chui vào tập đoàn và tránh được CPH, tránh được cạnh tranh thị trường, là vì tuy tham gia WTO Việt Nam có cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ nhưng vẫn còn những lĩnh vực bảo lưu. Hoặc có những lĩnh vực mà nhà nước có cái bóng quá lớn trên thị trường thì các DN tư nhân nên liệu đường mà né.
Nhưng kết quả là gì? Các quả đấm thép kết cục lại đấm vào nền kinh tế trong nước chứ không phải đấm vào các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài.
Suốt những năm đó, DN tư nhân chịu thiệt thòi nhiều hơn, vì phải đương đầu với cạnh tranh khốc liệt, không chỉ với sự tham gia của các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) mà từ chính sự bành trướng của DNNN.
Tổng kết giai đoạn CPH 2006-2010, có ai chịu trách nhiệm về việc không hoàn thành nhiệm vụ?
- Không.Vì việc này liên quan đến trách nhiệm của nhiều người, và đấy là kiểu của ta khi triển khai ngay cả những chủ trương tốt. Vì có quá nhiều địa chỉ chịu trách nhiệm nên không có ai chịu trách nhiệm cả, họ đá quả bóng trách nhiệm cho nhau. Trường hợp của Vinashin bị sụp đổ, ngoài 9 lãnh đạo Vinashin đi tù, người ta có qui kết trách nhiệm được cho ai nữa đâu.
Chính nhóm nghiên cứu Harvard cũng phản biện về tập đoàn, nhất là Vinashin, rất là dữ cơ mà?
- Không ăn thua. Bởi có nhiều cái họ nói rất trúng về kinh tế Việt Nam, nhưng cái gì đúng ý mình thì mình bảo được, còn những gì không đúng ý thì mình cho là họ ở bên ngoài, không mấy hiểu biết tình hình bên trong. Thực tế cho thấy các bản báo cáo lựa chọn chính sách của nhóm Harvard đều đúng. Nhưng khi thấy đúng thì đã quá muộn.
Trong nước cũng có nhiều chuyên gia nhận ra vấn đề về tập đoàn, nhưng phản biện không ăn thua. Ví dụ, văn kiện Đảng cho phép các tập đoàn được tự do kinh doanh, tôi là một trong những người phản đối hết sức quyết liệt, nhưng cũng phải chịu thua.
Lúc đó, có người còn bảo DNNN cũng là DN nên họ cũng được hưởng quyền tự do kinh doanh như trong Luật Doanh nghiệp qui định, tôi đã bảo không, bản chất của hai loại DN là khác nhau: DN tư nhân tiền vốn và tài sản là của họ, nên họ muốn làm gì họ làm và lời ăn lỗ chịu; còn DNNN là tiền nhà nước, tài sản của nhà nước, lãnh đạo DNNN là công việc được nhà nước giao cho ai đó làm, DNNN phải tập trung vào việc đó, chứ không phải nhảy sang các việc khác. Điều này cũng tương tự như quyền tự do của công dân là “được làm những gì pháp luật không cấm” khác với quyền của công chức “chỉ được làm những gì pháp luật cho phép”.
Tôi nhớ rằng Báo SGGP trong số báo Xuân 2006 đã làm chuyên đề “Khát vọng tập đoàn”. Họ có mời tôi viết bài, tôi đã nói ngày là tôi không có khát vọng tập đoàn đó đâu, tôi chỉ có lo ngại về mô hình này thôi. Họ đồng ý và tôi đã viết bài phản biện.
Trong bài đó tôi đã viết ra mấy điểm không ổn về mô hình tập đoàn, và tôi kết luận là có khát vọng là tốt, nhưng cần phải thực tế, nếu không khát vọng đó sẽ là ảo vọng và gây cho xã hội sự thất vọng. Và thực tế đã chứng minh.
Vậy với Chính phủ hiện nay, mô hình tập đoàn có được coi là sai lầm hay chưa, ít nhất trong quyết tâm CPH DNNN lần này?
- Tôi cũng chưa rõ CPH lần này sẽ đụng đến tập đoàn thế nào. Đơn vị lớn nhất sẽ CPH là Vietnam Airlines thì họ là TCT chứ không phải TĐ.
Họ sẽ CPH một số đơn vị thành viên của TĐ. Tức là TĐ chưa bị đụng đến, ngay cả khi nhiều người lên tiếng là không cần nữa, ví dụ như Dệt May. Bởi đó là một ngành thuần túy kinh doanh, và thị phần của tập đoàn Dệt May trong ngành dệt may của Việt Nam nói chung ngày càng nhỏ xuống, khi mà khu vực FDI tăng lên và tư nhân trong nước cũng tăng lên nhiều.
Đằng sau đó là nhóm lợi ích
Bà có nghĩ rằng luôn luôn có những lực lượng cản trở CPH không?
- Vì định hướng XHCN nên kinh tế nhà nước phải là chủ đạo, và trong kinh tế nhà nước có DNNN, được nhà nước dùng để điều tiết vĩ mô và là công cụ để nhà nước can thiệp vào thị trường. Và người ta định vị cho DNNN một lô vị trí quan trọng, kể cả thực hiện chính sách xã hội nữa.
DNNN bám vào lý do chính trị đó để khẳng định vị thế của họ, và có sự tiếp tay cho những nhóm quyền lực trong thiết kế và thực thi các chính sách, nhằm thực hiện vai trò chủ đạo.
Một khi nhà nước, các cơ quan nhà nước, vẫn chiều chuộng DNNN, thì làm sao có thể CPH họ được?
- Đằng sau đó là chuyện nhóm lợi ích. Lãnh đạo cao nhất của Đảng đã phát biểu chuyện này rồi, nhưng nhóm lợi ích lớn nhất chính là DNNN. Sau này, có thêm nhóm lợi ích ở khu vực tư nhân trong nước, khu vực FDI, nhưng ở hai khu vực sau họ chỉ ăn theo thôi.
Nếu chúng ta cắt đường của nhóm lợi ích ở khu vực DNNN, đồng thời áp dụng sự minh bạch mới trong cải cách thể chế thì dần dần các nhóm lợi ích ở hai khu vực kia sẽ bị triệt tiêu.
Nhiều người lo rằng CPH cũng có thể là một cơ hội để tư hữu hóa tài sản của nhà nước ?
- Về ý chí, người ta có thể tạm tin là CP muốn làm rồi, nhưng quá trình này CP cũng phải tiến hành một cách nghiêm minh và minh bạch tối đa mới có thể chống được sự tẩu tán tài sản, hay “đá” những miếng ngon lại đẩy về cho các công ty “sân sau”, công ty “người nhà”.
Thứ hai, cần có thêm đội ngũ phản biện và đánh giá độc lập, để giúp ngăn chặn bớt những cái xấu.
Trong quá trình giải tỏa đầu tư ngoài ngành, có những khoản buộc phải bán dưới giá trị sổ sách, mà một trong những nguyên nhân là giá trị sổ sách đó bị đội lên rất cao so với giá trị thực. Trưởng ban Nội chính TW Nguyễn Bá Thanh đã kể về ngân hàng cho vay, dựa trên mảnh đất thế chấp giá trị 100 tỷ được “bơm” lên thành 200 tỷ để cho vay và tạo ra giá trị ảo.
Như vậy, giải tỏa đi vẫn hay hơn là tiếp tục giữ để rồi tiếp tục mất mát về sau. Như Vinasshin, trong khi nhiều người nói nên phá sản đi, thì người ta quyết định giữ lại và cải tổ nó bằng cách đem chia ra làm 3. Rút cục là mấy năm liền năm nào nhà nước cũng phải đổ ra hàng trăm tỷ để trả lương công nhân, đến cuối cùng không chịu được nữa cũng phải giải tán.
(Còn nữa)
Huỳnh Phan (Thực hiện)