theo motthegioi :
Nguyễn Chính Tâm - Tồn kho thể chế
Nguyễn Chính Tâm
Trong những “tồn kho” năm cũ 2013 từ hàng hóa, tín dụng đến các dự án treo, thì một trong những vấn đề đáng quan ngại nhất là tồn kho thể chế. Thể chế được hiểu một cách đơn giản là quy tắc trong một xã hội hay một cộng đồng, tồn tại theo hai dạng là chính thức (luật pháp, văn bản thành văn, quy định mang tính pháp lý) và không chính thức (bao gồm cách ứng xử, những trường hợp ưu tiên hoặc “truyền thống” được số đông trong xã hội chấp nhận, tuân theo).
Trong một nền kinh tế, thể chế ví như luật chơi trong một trận túc cầu. Luật tốt, công bằng, sát với thực tế sẽ giúp cho cuộc chơi diễn ra hào hứng, các cầu thủ thi thố hết khả năng, và khán giả được mản nhãn bởi những pha bóng đẹp. Ngược lại, một luật chơi méo mó, bị lũng đoạn bởi các nhóm phi thể thao bên ngoài sân cỏ hay xa rời thực tiễn, sẽ tạo ra những lực cản hữu hình và vô hình, khiến trận cầu bị tác động tiêu cực, không xuôn sẽ theo những cách khác nhau.
Chẳng hạn như vai trò của các tập đoàn kinh tế Nhà nước được xem là chủ đạo trong nền kinh tế. Trong tất cả cuộc tranh luận về tái cấu trúc và cải cách nền kinh tế, doanh nghiệp Nhà Nước luôn nằm trong tầm ngắm với những vấn đề nan giải. Từ kỷ luật thị trường, thiếu tính công khai minh bạch, quy trình bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo lỏng lẻo đến nhập nhằng vấn đề sỡ hữu và trách nhiệm giải trình.
Khi chương trình tái cấu trúc nền kinh tế được triển khai từ 2010, thì việc giảm, cổ phần hóa và thay đổi cơ chế quản trị trong từng tập đoàn được đưa ra mổ xẻ. Trái với các kỳ vọng mang tính đột phá, quá trình này vẫn đang diễn ra chậm chạp. Chứng tỏ sức ý từ cơ chế cũ và các nhóm hưởng lợi từ cơ chế đó vẫn còn quá lớn.
Hay như các ý tưởng tái cơ cấu cấu trúc thương mại để giảm nhập siêu. Nhu cầu này được đặt ra từ nhiều năm nay, khi cán cân nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc cứ tăng không giảm.
Những đề xuất lần lược đưa ra đòi hỏi một giải pháp toàn diện từ việc nâng cao năng lực sản xuất nội địa, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài ở trong lãnh vực công nghiệp hỗ trợ, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng Việt Nam có khả năng sản xuất được, chuyển hướng thị trường nhập khẩu (đặc biệt là máy móc, công nghệ).
Nhưng vấn đề chính dường như lại nằm vượt qua các yếu tố kỷ thuật kinh tế. Đằng sau đó là điều mà giới học giả ví von như một “lời nguyền địa lý”, ám chỉ sức ép của việc sống dưới bóng của một nước lớn, về cả địa lý, dân số, văn hóa và cả các “sức ồ ạt” về sản xuất số đông.
Thay đổi một tập quán, một thói quen, hay một lối sống hoặc là cần một thế hệ, hoặc cần một chính sách đột phá mang tính tập trung cao độ. Mà trên hết là từ bỏ “sự dể dải” trong sản xuất, lẫn tiêu dùng.
Một thí dụ khác xoay quanh vai trò của Nhà nước. Song song với quá trình chuyển đổi nền kinh tế, những vấn đề phát triển từ một phương thức quản lý xã hội còn mang tính truyền thống sang hiện đại là hai nhân tố quan trọng. Sau một thời gian dài trong cơ chế quan liêu bao cấp, sinh hoạt thị trường với quy luật cung cầu đặt lại nhiều vấn đề về quản lý.
Một trong số đó là phân chia quyền và nghĩa vụ. Nếu Nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch nắm vai trò chủ đạo về mọi mặt, với nghĩa vụ cuối cùng đảm bảo thịnh vượng và an ninh cho cả cộng đồng, thì Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có xu hướng chia sẻ vai trò này với những tác nhân khác.
Trước sự hình thành những “tập đoàn lợi ích” khác nhau, thậm chí nhiều khi đối lập thì việc mở rộng quyền tham gia-chịu trách nhiệm trong các thành phần kinh tế, các lực lượng xã hội khác nhau chính là một cách để “dung hòa lợi ích”, gắn kết các nhóm lợi ích lại với nhau bằng những định chế mang tính chế tài của luật pháp và sự giám sát của công luận.
Vì thế, mô hình Nhà nước mạnh, trên ý nghĩa đủ khả năng đối phó trước những rủi ro, đảm bảo an ninh chung cho cả cộng đồng đang là con đường cần tiến. Nói như thông điệp của Thủ Tướng đầu năm 2014, Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển, tập trung vào xây dựng những nền tảng cho các đột phá chiến lược. Những đột phá này cần vốn, cơ sở hạ tầng, con người, nhưng đặc biệt một trong những yếu tố cần thiết tiên yếu nhất là một thế chế-chính sách tốt đóng vai trò đòn bẫy, kích hoạt những nhân tố xung quanh.
Rõ ràng, nếu những tồn kho này còn tồn tại, nó sẽ là những trì níu cho phát triển, làm méo mó thị trường, biến trận cầu đầy hứa hẹn thành nhàm chán, cũng như triệt tiêu động lực của những cầu thủ tài năng với tinh thần xả thân.
Nguy hiểm hơn, sự tồn tại của những thể chế đã lỗi thời song hành với nó những con người lỗi thời, với tư duy bảo thủ, chăm chăm vào lợi ích trước mắt, và bị xâu xé bởi những nhóm đặc lợi-đặc quyền.
Vì vậy, trọng tâm 2014 phải là giải quyết rốt ráo các vấn đề này, dẫu có là những quyết sách vĩ mô, hay chỉ là các rào cản thuế má, giấy tờ mang tính chất “hành là chính” ở cấp cơ sở. Không ai có thể giữ lại một thứ đã lỗi thời nếu tự bản thân mình không muốn. Dù cho đó có là thể chế, hay con người.
Vì vậy, trọng tâm 2014 phải là giải quyết rốt ráo các vấn đề này, dẫu có là những quyết sách vĩ mô, hay chỉ là các rào cản thuế má, giấy tờ mang tính chất “hành là chính” ở cấp cơ sở. Không ai có thể giữ lại một thứ đã lỗi thời nếu tự bản thân mình không muốn. Dù cho đó có là thể chế, hay con người.
Nguyễn Chính Tâm, sinh năm 1984, hoàn thành chương trình sau đại học tại Đức chuyên ngành Kinh tế - Chính trị quốc tế; hiện đang giảng dạy đại học tại TP.HCM