Đừng quay lưng lại với đòi hỏi cải cách thể chế chính trị
PGS Đào Công Tiến
Những góp ý
dưới đây với Đại hội XII của Đảng (cả Đại hội các cấp tiến đến
Đại hội XII), không có chủ đích nào khác ngoài sự mong muốn Đại hội đừng
quay lưng lại với đòi hỏi cải cách thể chế chính trị để thoát ra khỏi
sự ràng buộc vô lý của ý thức hệ XHCN theo chủ thuyết Mác – Lênin và
sự lệ thuộc vào những thế lực bành trướng, bá quyền Trung Quốc.
1. Đừng quay lưng lại với đòi hỏi cải cách thể chế chính trị, đang là đòi hỏi nóng bỏng của đất nước
Thể
chế chính trị mà Đảng Cộng sản đã chọn và áp đặt lên đường
lối phát triển của Việt Nam là CNXH dựa trên học thuyết Mác –
Lênin một thời tồn tại ở Liên Xô, tức CNXH theo mô hình Xô Viết,
và ở Trung Quốc – có lúc được gọi là CNXH đặc sắc Trung
Quốc. Đổi mới thể chế chính trị mà Đại hội Đảng lần này
phải trực diện không thể chỉ là “cơ chế chính sách, tổ chức
bộ máy” như Tổng Bí thư đã và đang chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân
thực thi những công việc của Đại hội.
Thể chế
chính trị đó- CNXH dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin- đã phá sản ở
Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, mà người trong cuộc ở đấy cho
rằng vì nguyên nhân tự thân của nó.
Một số nước
khác vốn đã nhân danh là quốc gia XHCN, trong đó có Việt Nam,
mặc dù phải đổi mới kinh tế để tồn tại và phát triển, nhưng
đổi mới không toàn diện, không triệt để, vì vẫn còn lệ thuộc
vào ý thức hệ XHCN và chế độ độc quyền lãnh đạo của Đảng
Cộng sản dựa trên siêu quyền lực.
Học thuyết Mác – Lênin và CNXH về lý thuyết thì mù mờ và đã thực sự bị phá sản trong đời sống hiện thực.
Mù mờ đến mức ngay cả người sùng bái CNXH nhất cũng phải
nói: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở
Việt Nam chưa” [2]Thế mà phải cứ lắp ghép một cách sống sượng
XHCN với kinh tế thị trường để có ‘kinh tế thị trường định
hướng XHCN’, và cứ phải thúc đẩy nhau đi tìm cái thể chế đó
mà có tìm được đâu, bởi: “Làm gì có cái thứ đó mà tìm”[3]
và mù mờ đến mức “đi mà không rõ đi đâu, bằng cách nào, bao
giờ đến” [4]
Mù mờ, cùng với quá lúng túng và bế tắc, bởi có nguyên nhân tự thân từ thể chế và cách tiếp cận không qua lăng kính của cuộc sống.
Nguyên nhân tự
thân của những lúng túng và bế tắc gắn liền với quá nhiều
khiếm khuyết trong nội hàm của mô thức tổ chức xã hội XHCN mà
các nhà sáng lập ra CNXH đã chọn:
(a) Tổ chức xã
hội theo thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp, coi đấu tranh giai cấp
là động lực phát triển xã hội, coi chuyên chính vô sản là nguyên tắc và
trên thực tế đã không tránh khỏi tình trạng lấy vô sản chuyên chính dân
tộc đánh vào khối đại đoàn kết dân tộc. Kích động hận thù, bạo lực
và tội ác cũng sinh ra từ những điểm đặc trưng nổi bật này.
(b) Mô thức tổ
chức nền kinh tế bị chi phối gần như tuyệt đối bởi những nét đặc trưng
như công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là nền tảng, kinh tế Nhà nước
chủ đạo, việc thực hành kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp và tự
túc tự cấp. Mô thức tổ chức nền kinh tế với những đặc trưng vừa kể
rất xa lạ với kinh tế thị trường trên phương diện sản xuất và tái
sản xuất trong đời sống hiện thực.
(c)Tập quyền
đến mức quyền lực thành siêu quyền lực cho sự độc quyền lãnh đạo của
Đảng Cộng sản vừa làm cho Đảng bị tha hóa vừa làm cho các tổ
chức chính trị, kinh tế xã hội khác mất quyền, trở thành
hữu danh vô thực. Không có quyền cũng dẫn đến tình trạng phổ biến
quay lưng với trách nhiệm đến mức vô cảm, khiến xã hội không còn
có người chủ nào là đích thực.
Ngoài nguyên
nhân tự thân như đã nêu ở trên, còn có nguyên nhân từ cách tiếp
cận không qua lăng kính của cuộc sống, để nhận biết học thuyết
Mác – Lênin và CNXH có cái gì trước đúng nay vẫn đúng, cái
gì trước đúng nay không còn phù hợp vì bối cảnh xã hội đã
có quá nhiều thay đổi, và cái gì cả trước và nay đều không
đúng, để có sự lựa chọn vận dụng.
Mô thức tổ chức xã hội XHCN với những đặc trưng như trình bày ở trên đã phá sản ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
Chọn học thuyết Mác – Lê nin và CNXH, Việt Nam đã phải
trả giá quá đắt bởi những sai lầm, khuyết điểm, nhất là sai lầm, khuyết
điểm nghiêm trọng trong việc chọn con đường và giải pháp cải
tạo XHCN và xây dựng CNXH từ 1954 ở miền Bắc và từ 1975 trên phạm vi
cả nước.
Có thể đơn cử như:
(a) Sai lầm trong Cải cách ruộng đất.
(b) Triệt phá kinh tế tư bản tư nhân ở miền Bắc sau 1954 và sau 1975 ở miền Nam.
(c) Xóa bỏ kinh tế cá thể của hàng chục triệu hộ nông dân, thợ thủ công và tiểu thương.
(d) Kỳ thị kinh
tế tư nhân và cấm đảng viên làm kinh tế tư nhân mãi tới những năm
gần đây, trong chừng mực mới có được tháo gỡ.
(e) Thái quá
trong phân định và phân biệt đối xử giữa các thành phần giai cấp trong
xã hội, nên đã nêu khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận
rễ” trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, đàn áp trí thức, nhân sĩ
yêu nước trong vụ Nhân văn Giai phẩm và trong vụ án Xét lại hiện
đại.
(f) Chọn đổi
mới kinh tế với cái cốt lõi là phát triển sản xuất hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhằm
sửa chữa những sai lầm về đường lối kinh tế dựa trên học thuyết Mác – Lê
nin và CNXH theo mô hình Xô Viết và mô hình “đặc sắc Trung Quốc”,
nhưng đổi mới không toàn diện, không triệt để cũng bởi những rào cản từ
ý thức hệ sợ “đổi mới được kinh tế nhưng mất tư tưởng, được
bộ phận nhưng mất tổng thể, được trước mắt nhưng mất lâu dài,
được kết quả hiển nhiên nhưng xa rời mục đích và những nguyên
tắc cơ bản, được của cải nhưng hỏng quan hệ sản xuất và con
người”, như không ít lý luận gia “cộm cán” của Đảng đã răn dạy,
ngay cả khi công cuộc đổi mới hết sức sôi động và nền kinh tế thoát dần
ra khỏi khủng hoảng và lấy đà tăng trưởng.
(g) Chậm nhận
biết sự tất yếu mang tính quy luật của phát triển bền vững,
nên kinh tế có tăng trưởng nhưng tình trạng lâm nguy đối với văn
hóa và sự tàn phá môi trường càng lớn, càng gay gắt. Chạy theo
tăng trưởng nhất là trên diện rộng và số lượng, gây bất ổn
kinh tế vĩ mô và cái giá phải trả từ đó là chất lượng tăng
trưởng không cao, chất lượng cuộc sống của người dân chậm được
cải thiện, mức tụt hậu so với các nước trong khu vực ngày càng
lớn.
Sai lầm
trong việc chọn đường lối cùng với bộ máy cầm quyền yếu kém, hư hỏng,
cộng với sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính và tham nhũng, đã
đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng, tụt hậu về kinh tế, lâm nguy
về văn hóa và môi trường bị xâm hại vô phương cứu chữa. Toàn
Đảng với gần bốn triệu đảng viên, phải chịu trách nhiệm về
những sai lầm như đã nêu ở trên và phải sửa sai, bằng cách từ
bỏ đường lối xây dựng CNXH dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin,
chuyển sang đường lối dân tộc, dân chủ theo tinh thần của nền
cộng hòa dân chủ với sự tôn vinh nhân quyền và pháp quyền. Sứ
mệnh và tầm nhìn đó đòi hỏi Đại hội XII (cả đại hội các cấp
tiến đến Đại hội XII) không được quay lưng lại với yêu cầu cải
cách thể chế chính trị.
2. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, có
cả ngàn năm phải đối đầu với mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc
nhằm phục vụ lợi quyền của Trung Quốc. Chỉ tính riêng trong khoảng 40
năm gần đây (từ sau 1975), các thế lực bành trướng bá quyền Trung Quốc
đã chiếm Hoàng Sa (năm 1974); đánh chiếm Gạc Ma (năm 1988), đứng sau
lưng “Khơme đỏ” đánh Việt Nam ở biên giới Tây Nam (1976-1978), đưa 60
vạn quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc (1979),
hạ đặt giàn khoan HD981 trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, và
một chuỗi hành động rất đáng quan ngại là việc “xây dựng các
đảo nhân tạo” đang được ráo riết thực hiện ở Trường Sa, Hoàng
Sa không thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Sự ngang ngược và ngạo mạn hết sức nguy hiểm đó, phải
được coi là những hành vi xâm lược, và phải được đối phó bằng hành động
chống xâm lược với ý chí và quyết tâm chính trị cao của khối đại đoàn
kết các dân tộc Việt Nam, của Nhà nước và của đảng cầm quyền.
Thế nhưng, tại
nhiều diễn đàn trong nước và quốc tế, nhất là tại hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 9 Khóa 11 và tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa 13
không những không ra được tuyên bố chỉ trích xâm lược và kiên quyết
chống xâm lược, mà còn có không ít những phát ngôn làm được lòng
Trung Quốc nhưng mất lòng dân vì những mơ hồ mất cảnh giác từ nhận thức “cùng ý thức hệ XHCN” và những lời ngon ngọt “bốn tốt”, “16 chữ vàng”.
Thái độ mơ hồ mất cảnh giác, không giống một số nước bạn như Nhật
Bản, Philippines, đã, đang và sẽ tự mình đánh mất chủ quyền, vừa
không làm tròn trách nhiệm với các quốc gia, các cộng đồng dân
tộc thuộc khu vực ASEAN trong mối liên kết bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ cũng như trong quyền sử dụng tài nguyên trên không, trên
biển theo luật quốc tế.
3. Chuẩn bị cho Đại hội XII là việc phải làm và cấp ủy các cấp của khóa XI có trách nhiệm trong việc chuẩn bị này. Nhưng
chuẩn bị chứ không phải áp đặt, và càng không thể là thủ đoạn lấn
quyền của Đại hội. Chuẩn bị Đại hội phải thực sự coi trọng dân chủ, công
khai, minh bạch(cả trong Đảng và trên toàn xã hội).
Qua hệ thống
thông tin đại chúng và tiếp cận bước đầu với các dự thảo văn kiện trình
Đại hội XII, thì thấy việc cải cách thể chế chính trị (cả chế độ và
đảng), không những chưa được quan tâm, mà còn buộc phải theo tinh thần
Cương lĩnh 2011 và Hiến pháp 2013, vốn cố bám giữ đường lối XHCN theo
chủ nghĩa Mác – Lê nin và sự độc quyền lãnh đạo của Đảng bằng siêu quyền
lực. Đây đang là vấn đề nóng bỏng phải xem xét triệt để mà Đại hội XII
không thể quay lưng lại được.
Về nhân sự cho
cơ quan lãnh đạo các cấp trong nhiệm kỳ Đại hội XII theo quyết định ngày
09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI, vẫn không có dân chủ
thực chất và trên thực tế không tránh được sự sắp đặt của cấp ủy khóa
trước cho nhân sự của khóa sau, và cũng không tránh được sự chi phối của
một số ít người có quyền. Quy chế mới còn hạn chế hơn nữa quyền ứng cử,
đề cử, quyền bảo lưu ý kiến thiểu số và quyền được báo cáo
với cấp trên cho đến đại hội đại biểu toàn quốc của đảng
viên, trong đó có những quy định không phù hợp với điều lệ Đảng hiện
hành.[5]
23.8.2015
Đ.C.T.
[1] Những góp
ý với ĐH XII của PGS Đào Công Tiến (nguyên Hiệu trưởng trường
ĐH Kinh tế TpHCM, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng
Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên Phó Giám đốc ĐH
Quốc gia TpHCM và Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam)
đã được chuyển đi từ Đại hội chi bộ sở tại (ngày 17/4/2015),
từ Hội nghị lấy ý kiến ở ĐHQG TpHCM (20/5/2015) và ở Hội Khoa
học Kinh tế VN (5/6/2015).
Cũng như
nhiều lần trướctrong hàng chục năm qua, những góp ý như vậy
thường không đến được số đông dảng viên và người dân, đặc biệt,
không bao giờ được phản hồi từ những tổ chức hoặc cá nhân
hữu trách của Đảng.
Nói khác
đường lối “chính thống” của Đảng và nhất là nói trên các
phương tiện thông tin đại chúng là vi phạm những điều đảng viên
không được làm. Tôi biết, đó là điều không nhỏ, tức cũng là
việc lớn, nhưng những góp ý với ĐH Đảng không đơn thuần là
chuyện của Đảng, của một số ít người trong Đảng, mà lớn hơn,
là chuyện của dân của nước, của nhiều đảng viên, nhiều người
dân vốn nặng lòng với chuyện dân chuyện nước cần biết và có
trách nhiệm biết.
[2] TBT Nguyễn
Phú Trọng tuyên bố: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây
dựng CNXH còn dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có
CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” – Báo Tuổi Trẻ online
23/10/2013
(http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20131023/du-thao-chua-vang-vong-nhu-loi-hieu-trieu/576098.html)
[3] Nhiều
người hỏi Bộ trưởng bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh thế
nào là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, ông đáp:
“Chúng ta cứ nghiên cứu mãi cái mô hình đó, mà mãi có tìm ra
đâu. Làm gì có mà tìm.” – Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày
03/05/2014
(http://www.thesaigontimes.vn/114301/Cai-cach-the-che-tu-cau-hoi-chua-co-loi-giai.html)
[4] Thứ
trưởng bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: “Tôi cứ suy
nghĩ mãi một điều, nếu chúng ta đi mà không rõ đi đâu, bằng
cách nào, bao giờ đến thì không bao giờ chúng ta đi nhanh và
bền vững được.” – Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 22/11/2014
(http://www.thesaigontimes.vn/124350/Thu-truong-Bo-KHDT-Chung-ta-di-ma-khong-biet-di-dau.html)
[5] Mấy điều
không phù hợp với Điều lệ Đảng trong Quy chế bầu cử trong đảng
theo Quyết định số 244-QĐ/TW ngày 09/06/2014 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI:
§ Theo Quy
chế, cấp Ủy viên và Ủy viên thường vụ, Ủy viên Bộ chính trị
và Ban Bí thư không được ứng cử và đề cử nhân sự ngoài danh
sách do cấp ủy đề cử. Quy định này không phù hợp với quy định
“Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu
và báo cáo lên cấp trên cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc”
tại Khoản 5, Điều 9 của Điều lệ Đảng hiện hành.
§ Quy chế
bầu cử khống chế số dư tối đa không quá 30% số lượng cần bầu
là lấn quyền của Đại hội vì Điều lệ hiện hành nêu rõ ở
Khoản 2, Điều 9: “Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại
hội đại biểu toàn quốc, cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là Đại
hội Đại biểu hoặc Đại hội Đảng viên” và ở Khoản 3, Điều 12
quy định: “Danh sách bầu cử do Đại hội thảo luận và biểu
quyết thông qua”.
Quy chế bầu
cử trong đảng coi “danh sách do cấp ủy triệu tập đại hội đề
cử là danh sách đề cử chính thức với đại hội”, thậm chí “có
thể lấy danh sách đó làm danh sách bầu cử”. Như vậy có sự
phân biệt đối xử giữa những người trong danh sách của cấp ủy
và những người tự ứng cử và được đề cử tại đại hội. Nguyên
tắc dân chủ, bình đẳng trong bầu cử bị vi phạm bởi sự phân
biệt đối xử đó.
PGS Đào Công Tiến
Viet-studies nhận được ngày 23-8-15